Thứ Tư, ngày 10/09/2025 08:08 | HOTLINE : 0906.18.1357 | Email: bbt.giaothong360@gmail.com
Liên hệ quảng cáo: 0906.18.1357
Tiêu điểm

Đường sắt tốc độ cao có thể đóng góp khoảng 1 điểm % tăng trưởng GDP mỗi năm

Minh Khôi - 09:27 27/03/2024 GMT+7

Sáng 26/3, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chủ trì phiên họp thứ hai của Ban Chỉ đạo xây dựng, thực hiện đề án chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc – Nam và các dự án đường sắt quan trọng quốc gia.

Đường sắt tốc độ cao có thể đóng góp khoảng 1 điểm % tăng trưởng GDP mỗi năm- Ảnh 1.

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà cho rằng, triển khai Dự án đầu tư đường sắt tốc độ cao cần dựa trên hiệu quả đối với các ngành kinh tế, các vùng miền và cả nước - Ảnh: VGP/Minh Khôi

Phó Thủ tướng đề nghị các thành viên Ban Chỉ đạo, chuyên gia, nhà khoa học trao đổi, phân tích để đưa ra câu trả lời cho một số vấn đề lớn: Đường sắt tốc độ cao có kết hợp vận tải hành khách và hàng hoá hay không; giải pháp công nghệ, tốc độ phù hợp và kinh nghiệm phát triển của các nước; lộ trình triển khai, các đoạn tuyến ưu tiên...

"Các ý kiến, lập luận cần dựa trên hiệu quả đối với các ngành kinh tế, các vùng, miền và cả nước; khả năng chuyển giao, làm chủ công nghệ và mục tiêu phát triển ngành công nghiệp, dịch vụ đường sắt hoàn chỉnh", Phó Thủ tướng nói.

Đề xuất tốc độ đường sắt tốc độ cao là 350 km/giờ

Theo báo cáo của Bộ GTVT, tuyến đường sắt tốc độ cao với tốc độ thiết kế là 350 km/giờ, vận tải hành khách và vận tải hàng hoá khi có nhu cầu; còn tuyến đường sắt hiện hữu sẽ chuyển sang phục vụ vận tải hàng hoá.

Thời gian qua, Bộ GTVT đã phối hợp với Tổng cục Thống kê (Bộ KH&ĐT) đánh giá tác động của Dự án Đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam đến nền kinh tế cho thấy dự án có thể đóng góp khoảng 1 điểm % tăng trưởng GDP mỗi năm trong giai đoạn 2025-2037.

Bộ GTVT và các cơ quan liên quan cũng đã rà soát, cập nhật hoàn thiện phương án huy động nguồn vốn, đánh giá tác động nợ công; đề án phát triển nguồn nhân lực; định hướng phát triển công nghiệp đường sắt…

Bên cạnh việc thực hiện cải tạo, nâng cấp để khai thác hiệu quả các tuyến đường sắt hiện có, Ban Quản lý dự án đường sắt cũng đang triển khai các bước chuẩn bị đầu tư các dự án thuộc tiêu chí dự án quan trọng quốc gia: Tuyến Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng nằm trên hành lang kinh tế Đông - Tây; Ngọc Hồi (Thanh Trì, Hà Nội) – Thạch Lỗi (Đông Anh, Hà Nội) kết nối các tuyến đường sắt đi phía nam và phía bắc; TPHCM – Cần Thơ kết nối TPHCM với các tỉnh miền Tây Nam Bộ; Thủ Thiêm – Long Thành kết nối TPHCM với Cảng hàng không Long Thành; Biên Hoà – Vũng Tàu kết nối các tỉnh Đông Nam Bộ với TPHCM, cảng biển khu vực Cái Mép – Thị Vải.

Về khó khăn, vướng mắc, Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Danh Huy cho biết các dự án đường sắt quan trọng quốc gia có quy mô lớn, tiêu chuẩn kỹ thuật phức tạp, đi qua nhiều địa phương nên cần xem xét cẩn trọng, kỹ lưỡng, công tác chuẩn bị đầu tư mất nhiều thời gian, cần sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành, địa phương.

Các dự án đường sắt mang lại hiệu quả lớn về mặt kinh tế nhưng hiệu quả tài chính dự án không cao, nên ngân sách nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo và ưu tiên bố trí nguồn lực để đầu tư.

Công nghiệp đường sắt trong nước chưa sản xuất được phương tiện, thiết bị, linh kiện, phụ tùng cho đường sắt nói chung.

Nguồn nhân lực chưa tiếp cận với trình độ quản lý, kỹ thuật tiên tiến; thiếu chuyên gia về đường sắt.

Đường sắt tốc độ cao có thể đóng góp khoảng 1 điểm % tăng trưởng GDP mỗi năm- Ảnh 2.
Đường sắt tốc độ cao có thể đóng góp khoảng 1 điểm % tăng trưởng GDP mỗi năm- Ảnh 3.
Đường sắt tốc độ cao có thể đóng góp khoảng 1 điểm % tăng trưởng GDP mỗi năm- Ảnh 4.
Đường sắt tốc độ cao có thể đóng góp khoảng 1 điểm % tăng trưởng GDP mỗi năm- Ảnh 5.

Nhiều ý kiến cho rằng phải gia tăng thị phần vận tải hàng hoá đường dài bằng đường sắt để giảm chi phí logistics- Ảnh: VGP/Minh Khôi

Gia tăng thị phần vận tải hàng hoá đường dài

Theo GS.TS. Lã Ngọc Khuê, nguyên Thứ trưởng Bộ GTVT, ngoài mục tiêu vận tải hành khách, tuyến đường sắt tốc độ cao phải tăng thị phần vận tải hàng hoá đường dài có như vậy mới giảm chi phí logistics; và "dứt khoát phải liên thông với các tuyến đường sắt quốc tế".

"Mặc dù vận tải đường thuỷ nội địa, đường biển có ưu thế về chi phí, nhưng thời gian kéo dài, bốc dỡ nhiều lần, vì vậy, đây là cơ hội rất lớn để ngành đường sắt tăng thị phần vận tải hàng hoá đường dài, nâng cao năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế", GS.TS Lã Ngọc Khuê phân tích.

Đồng tình với ý kiến này, TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng trong tương lai việc đánh thuế carbon sẽ làm chi phí vận tải đường bộ, đường thuỷ, hàng không tăng mạnh, trong khi đây sẽ là ưu thế của vận tải đường sắt chặng dài.

Ông Vương Đình Khánh, nguyên Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty Đường sắt Việt Nam đề nghị tính toán kỹ phương án đưa toàn bộ tuyến đường sắt hiện hữu chỉ phục vụ chạy tàu hàng; đầu tư cho công nghiệp đường sắt, nhất là chế tạo đầu máy, toa xe,… song song với lộ trình triển khai dự án đường sắt tốc độ cao.

Trong khi đó, TS. Nguyễn Văn Phúc, nguyên Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội bày tỏ, "kỹ thuật, công nghệ chúng ta còn phụ thuộc bên ngoài, nên cái chủ động được chính là cơ chế, chính sách để huy động được nguồn lực, đột phá về cách làm".

Ghi nhận ý kiến các chuyên gia, nhà khoa học, Phó Thủ tướng nhấn mạnh, một quốc gia công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần phát triển đường sắt tốc độ cao để giảm chi phí logistics, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, trong xu thế chuyển đổi xanh hiện nay.

Bộ GTVT cần tiếp thu, giải trình, làm rõ các ý kiến được nêu tại phiên họp, hoàn thiện phương án đầu tư các tuyến đường sắt tốc độ cao bảo đảm đồng bộ, thống nhất quy chuẩn, tiêu chuẩn từ thiết kế, hạ tầng, phương tiện, hệ thống thông tin, điều hành…

"Phải giữ lại các nhà ga trung tâm ở các đô thị lớn mang tính biểu tượng, đồng thời bảo đảm hành lang an toàn bằng cách kết hợp với tuyến đi trên cao, đi ngầm", Phó Thủ tướng lưu ý.

Phó Thủ tướng cũng đề nghị Bộ GTVT làm rõ hiệu quả kinh tế, công nghệ, kỹ thuật và kinh nghiệm vận hành đường sắt tốc độ cao kết hợp vận tải hành khách với hàng hoá trên thế giới; phương án huy động nguồn vốn, phân kỳ đầu tư; mô hình tổ chức bộ máy quản lý, vận hành đồng bộ, thống nhất; phương án tiếp nhận, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ tiến tới làm chủ và xây dựng ngành công nghiệp đường sắt trong nước…

  • Chủ tịch nước gửi thư chúc mừng ngành giáo dục nhân dịp khai giảng năm học 2025-2026

    Chủ tịch nước Lương Cường vừa gửi thư chúc mừng toàn ngành Giáo dục nhân dịp khai giảng năm học mới 2025-2026. Trong thư, Chủ tịch nước mong muốn các thầy giáo, cô giáo, cán bộ quản lý, người lao động ngành Giáo dục luôn giữ vững ngọn lửa tâm huyết, tình yêu nghề, xây dựng môi trường học tập hạnh phúc cho học trò. Tạp chí điện tử Thương hiệu và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Thư của Chủ tịch nước Lương Cường.
  • Chính sách mới nổi bật có hiệu lực từ tháng 9/2025

    Từ tháng 9/2025, nhiều chính sách mới có hiệu lực, nổi bật là các chính sách liên quan đến chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ; khởi nghiệp sáng tạo bằng quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật; dạy và học bằng tiếng nước ngoài...
  • Nhìn lại chặng đường vẻ vang và định hướng phát triển đất nước trong giai đoạn mới

    Hướng tới Kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tự hào nhìn lại chặng đường lịch sử hào hùng, đặc biệt là những thành tựu vĩ đại sau gần 40 năm thực hiện công cuộc Đổi mới. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, khẳng định vị thế và uy tín ngày càng cao trên trường quốc tế. Với những dấu ấn quan trọng trong quá trình phát triển của đất nước, kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và xác định những phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn tới.
  • Bộ Xây dựng trả lời về việc hạ giá vé máy bay

    Bộ Xây dựng vừa có công văn gửi UBND tỉnh Bình Định để trả lời kiến nghị của địa phương này về việc sớm có giải pháp phối hợp để hạ giá thành vé máy bay xuống mức hợp lý và ổn định để giúp nâng cao tính cạnh tranh của du lịch Việt Nam nói chung và tỉnh Bình Định nói riêng.
  • Báo in trong thời đại chuyển đổi số

    Sự bùng nổ nhanh chóng của các nền tảng số đã thay đổi phương thức, thói quen tiếp nhận thông tin của độc giả, đặt ra không ít thách thức đối với sự phát triển của báo in. Tuy nhiên, trước môi trường truyền thông xã hội ngày càng ồn ào, phức tạp và nhiều tin giả, báo in vẫn giữ một vị trí nhất định nhờ các giá trị cốt lõi bền vững của mình. Vậy làm thế nào để báo in vẫn đứng vững trong bối cảnh chuyển đổi số? Tạp chí Môi trường Giao thông đã có cuộc trao đổi với Thạc sĩ, Nhà báo Đinh Ngọc Sơn – Nguyên Phó Trưởng khoa Phát thanh – Truyền hình, Học viện Báo chí và Tuyên truyền về vấn đề này.